Greaves từng đến nước Ý, đá được chính xác là 14 trận trong màu áo AC Milan, ghi 9 bàn thắng trước khi tìm đường về Anh chỉ sau 4 tháng. Lý do không hẳn vì nhậu nhẹt. Chuyện về Greaves trước, trong và sau khoảng thời gian trên đất Ý rất dài và thú vị.
1. Greaves bắt đầu sự nghiệp của mình vào năm 1957 tại sân Stamford Bridge khi mới 17 tuổi. Ông đã lập tức nổ súng trong trận ra mắt tại sân White Hart Lane, khi Chelsea hòa Tottenham1-1.
Từ ngày đó, thác lũ tràn về với 124 bàn sau 4 mùa giải từ năm 1957 đến năm 1961; 157 trận đấu và 6 hattrick trong mùa giải cuối cùng 1960-1961, mùa giải mà Jimmy Greaves đã ghi được 41 bàn thắng để giữ kỷ lục về số bàn trong một mùa cho Chelsea đến tận hôm nay. Trong sự nghiệp của mình, Greaves có 2 cúp FA, 1 Siêu Cúp Anh cùng Tottenham sau này, 7 Chiếc giày Vàng tính đến thời điểm… nghiện rượu năm 1970; không có một chức VĐQG nào nhưng bù lại, ông đã cùng ĐT Anh lên ngôi ở World Cup 1966.
Greaves là một người gặp khá nhiều chuyện không may trong cuộc sống. Cách đây 4 năm, ông đã phải bán chiếc HCV World Cup vì khó khăn kinh tế. Chính chiếc huy chương này cũng là một kỷ niệm không vui: Greaves không đàng hoàng nhận nó trên bục trao giải, và không được nâng cao cúp vàng thế giới gần 50 năm trước vì chỉ những cầu thủ đá trong trận chung kết mới được nhận thưởng. Một chấn thương đã ngăn cản ông làm điều đó.
Sau này, mãi đến năm 2009, khi chiến dịch “Những người hùng bị bỏ quên” được vận động thành công, Thủ Tướng Anh - Gordon Brown mới trao lại phần thưởng vinh quang dành cho những người xứng đáng. “Chúng tôi là một phần của lịch sử World Cup,” Greaves béo phệ tươi cười nói.
Trở lại quá khứ, đó là thời điểm Greaves đang cực kỳ chán nản vì bị lãng quên và vì cái chết của đứa con trai 4 tuổi Jimmy Junior do bệnh viêm phổi. Greaves đã tìm đến “ma men” và rượu đã phá nát sự nghiệp của ông vào năm 1970, khi chỉ mới 25 tuổi. Kẹp giữa hai cột mốc đó, là chuyện ông ở Milan.
2. Danh tiếng của Greaves ở Chelsea ngày ấy đã nhanh chóng lan đến Ý, nơi AC Milan đang tìm một chân sút có khả năng khoan thủng những bức tường phòng ngự đang mọc lên đầy rẫy tại Serie A.
Cần phải nói, những năm tháng nửa sau thế kỷ 20, bóng đá vẫn còn rất nặng tính cục bộ địa phương và các cầu thủ Anh rất ít khi ra nước ngoài thi đấu. Xét đến giai đoạn 1986-1990, cũng chỉ có một nhóm nhỏ các cầu thủ Anh đến đá tại Tây Ban Nha, Ý và Pháp. Một số ít “can đảm” hơn thì chỉ đi đến Glasgow Rangers (Scotland). Thế nên, Greaves là một trong những cái tên lớn hiếm hoi xuất ngoại sớm.
Tháng 6-1961, HLV Giuseppe Viani đề nghị với Chelsea bản hợp đồng trị giá 80.000 Bảng và cho Greaves hưởng mức lương 140 Bảng một tuần. Đó như những món tiền trong mơ vào thời điểm luật lương tối đa ở Anh vẫn còn hiệu lực, khiến cầu thủ thi đấu tại xứ sương mù chỉ được nhận lương tối đa 20 Bảng một tuần. Đề nghị của Milan còn như một sự giải thoát cho khủng hoảng sau nỗi đau mất con của chàng trai trẻ.
Toàn bộ thủ tục giấy tờ đã được ký kết xong và chỉ có một rắc rối nho nhỏ ngăn cản Greaves khám phá vùng đất mới: Ông phải chờ đến ngày FIGC hủy luật cấm cầu thủ nước ngoài ở giải vô địch Ý. Trong thời gian chờ đợi ấy, biến cố bất ngờ xảy ra khi luật lương tối đa ở Anh bị gỡ bỏ, Greaves khi đó điên cuồng tìm cách ở lại Anh, nhưng mọi chuyện đã rồi và ông phải đến Ý.
Cánh cổng tưởng mở một nơi đầy ánh sáng và tiền bạc đã dẫn đến những tháng ngày tựa như địa ngục! Đến Milan là cuộc chuyển nhượng tồi tệ nhất mà Greaves từng thực hiện. Ông bị phạt vì vi phạm những nguyên tắc của CLB và thiếu tự do. Lý do chính không phải rượu chè, mà chính mối quan hệ không “cơm lành, canh ngọt” của ông với HLV huyền thoại Nereo Rocco mới là vấn đề quyết định.
Greaves ghét HLV, ghét sự hà khắc trong tập luyện, ông ghét những “ritiro” (trại tập huấn trước các trận cầu quan trọng), nơi cả đội phải ở tập thể dài ngày để tập luyện và không được phép nghỉ. Greaves đã nhiều lần tìm cách trốn ra ngoài trong những lần tập trung như vậy. Một lần, Rocco thậm chí đã nhốt Greaves lại trong phòng nhưng cầu thủ người Anh vẫn thoát. Ông nhảy ra ngoài cửa sổ, trèo qua bờ tường, trèo lại vào cửa sổ ở tiền sảnh và thoát ra bằng cửa chính.
4. Nhưng chuyện chưa dừng lại. Trong bốn tháng Greaves-Milan-và-nước-Ý không chỉ có “địa ngục” Rocco, mà còn là những trải nghiệm thú vị mà ông chia sẻ với Forza Italian Football vào năm 2011: “Tôi đặc biệt nhớ Omar Sivori, một tiền đạo người Argentina nhập tịch Italia và là người bạn lớn của John Charles ở Juventus. Hắn có thủ thuật trỏ hai ngón tay vào mắt và tạm thời làm mù mắt bạn. Khi tôi đá cho Milan, những thủ thuật đen tối (dark arts) được mọi hậu vệ biết rành - đá vào mắt cá, đá vào gối từ sau và tắc bóng không nhân nhượng. Bạn không bao giờ lấy được bóng mà không nhận trước những tác động từ người kèm bạn. Dù chỉ chơi tại Italia vài tháng, nhưng tôi cảm thấy như mình đã đến Milan như một cậu nhóc và trở về như một gã đàn ông, nhờ vào tất cả những vết thương đã chịu đựng từ những hậu vệ của họ”.
Ngày 14-2-2010, một tuần trước trận đấu ở Champions League giữa AC Milan và Manchester United tại San Siro (nơi David Beckham có lần gặp lại Man United), Greaves đã có một bài chia sẻ trên tờ Mirror về khoảng thời gian ngày xưa của mình tại Ý: “Sau một vài tháng, tôi trở về nhà nhưng không phải tôi không thích giải đấu có tính cạnh tranh cao nhất trên thế giới (thời điểm đó), ở đất nước xinh đẹp nhất trái đất này và gặp gỡ những con người cuồng tính nhất hành tinh. Những ngày này, người Anh chúng ta nghĩ mình bị ám ảnh bởi bóng đá, nhưng tôi nghĩ chúng ta chưa bao giờ hoàn toàn như thế. Người Anh không bao giờ đam mê bằng người Ý”.
Greaves không bao giờ quên chuyến làm khách đầu tiên của ông đến Venice. Không phải vì Quảng trường St Mark, không phải vì cầu Bridge of Sighs hay những khúc serenade được tấu lên bởi người cầm lái. Đó là khi AC Milan đến sân đấu trong chuyến làm khách của Venezia bằng thuyền, Greaves đã cố tìm chỗ để ngắm cảnh trên boong nhưng các đồng đội bảo ông rằng tốt nhất là hãy ở lại bên trong khoang. Họ nhận thức trước rằng vào mỗi cây cầu lịch sử mình đi qua, thuyền của Milan sẽ bị ném cà chua thối.
“Nếu bạn là người Milan, bạn đã bị ghét bởi nhiều vùng khác trên nước Ý. Trận derby với Inter thành ra lại là trận khoan thai nhất. Trận Palermo tại Sicily còn thảm hơn. Hàng rào ngăn cao tới gần 40 mét nhưng vẫn có hàng trăm CĐV (đội nhà) trèo lên chúng để ném lén chúng tôi. Sau trận đấu, tôi ngồi sau HLV trên xe của đội, và được Giovanni Trappattoni nhắc nhở ngay: “Jim, không, không phải chỗ này”. Sau đó, cậu ấy đã kéo tôi lên ngồi đằng trước HLV, ngay trước khi cửa sổ đằng sau xe bị ném gạch. Người ta hay gọi các hooligan là “những thằng Anh bệnh hoạn”. Và chúng ta đã phải chịu những điều khủng khiếp trong những năm về sau nhưng chính người Ý chắc chắn đã phải chịu những khổ đau này trước chúng ta”.
Ngày chưa đến Milan, Greaves cùng đội tuyển Anh đã giành chiến thắng 3-2 trước ĐT Ý ngay tại Olimpico năm 1961. Các ultras đốt lửa những bậc cầu thang, ném vật thể lạ vào đội tuyển Anh và Greaves đột nhiên nghĩ: “Làm thế quái nào mà mình đã đồng ý đến đá ở đây cơ chứ?”
Sau tất cả những gì ông đã trải qua, kết thúc bài bình luận trên Mirror, Greaves viết: “Tôi tiếc rằng mình đã không chơi cho Milan vào cuối sự nghiệp như Beckham, mà lại vào lúc 21 tuổi, khi còn mắc bệnh nhớ nhà. AC Milan là một CLB vĩ đại, San Siro là nơi tuyệt vời để chơi bóng đá và khi bạn đã đá cho một CLB lớn như vậy, tuy chỉ trong một thời gian ngắn, kỷ niệm đó sẽ ở trong bạn suốt đời”.
Nước Ý và văn hóa bóng đá Ý hiện lên qua 4 tháng trong câu chuyện của Greaves là sự thù ghét từ HLV, và những cổ động viên quá khích. Bóng đá ấy của địa ngục xấu xí, bóng đá không đẹp, bóng đá đầy mánh khóe và bạo lực.
Nhưng, bóng đá ấy cũng sặc sụa nổ giòn như quả pháo giao thừa, bóng đá bốc cháy còn người vỡ òa sau bàn thắng, người chảy nước mắt và trải qua những cảm xúc mãnh liệt nhất. Bóng đá ấy là nơi của máu ăn thua và nơi có những người chịu làm những điều điên rồ nhất để bảo vệ màu cờ.
Bóng đá ấy không phải thiên đường sao?