Ung thư vú là sự phát triển một cách bất thường không kiểm soát được của các mô vú, thường là ở các ống dẫn sữa và tuyến sữa. Xuất hiện ở cả nam lẫn nữ, tuy nhiên phổ biến ở nữ nhiều hơn.
Minh họa các tuyến ung thư vú.
Thường có 2 loại: Các nguyên nhân kiểm soát được như: các chất gây ô nhiễm, hóc-môn, thuốc diệt côn trùng, khói thuốc, rượu, béo phì, căng thẳng (stress), số lần sinh đẻ, lối sống, môi trường v.v… Các nguyên nhân không kiểm soát được : lịch sử gia đình (di truyền), tuổi tác, chủng tộc… Hiện nay tỷ lệ mắc mới ung thư vú ở các nước đang phát triển tăng rất nhanh mà nguyên nhân chính là tuổi thọ ngày càng cao, tốc độ đô thi hóa nhanh, việc du nhập và bắt chước lối sống phương Tây ngày càng phổ biến…. Ở các nước phát triển có tỷ lệ ung thư vú cao nhất trên thế giới như ở Mỹ , tỷ lệ ung thư vú ở phụ nữ là 1:8 (8 người phụ nữ, có 1 người bị ung thư vú. Theo Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (National Cancer Institute (NCI), năm 2009, ở Mỹ có 192.370 ca mắc mới và số bệnh nhân chết vì ung thư vú là 40.170 người, năm 2010 dự tính khoảng 207.090 ca mắc mở ở nữ. Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc mới ung thư vú ngày càng tăng, và đặc biệt xuất hiện ngày càng nhiều ở những người trẻ tuổi hơn. Trước đây độ tuổi bị ung thư vú ở nữ ngoài 30, thì hiện nay độ tuổi từ 20 - 30 cũng mắc bệnh ngày càng nhiều. Theo số liệu theo dõi ở Bệnh viện K (Hà Nội) chỉ trong 2 tháng 4 và 5 - 2008, bệnh viên phát hiện được 10 ca ung thư vú dưới 30 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú ở Hà Nội cao nhất nước, khoảng 30 /100.000 phụ nữ, thứ nhì là TPHCM với 20 /100.000 phụ nữ.
Chụp MRI bằng máy Aurora Breast MRI để xác định khối u.
Ung thư vú là một trong những ung thư gây chết người nhiều nhất ở nữ giới. Điều may mắn là ung thư vú có thể chữa khỏi nếu được phát hiện sớm. Phụ nữ phải tự kiểm tra vú hàng ngày, khám vú định kỳ mỗi 6 tháng hay 1 năm hoặc ngay khi phát hiện có bất thường ở vú để kịp thời chẩn đoán xác định bệnh và có giải pháp điều trị hiệu quả. Điều đáng lo là nhiều chị em phụ nữ chưa biết cách tự chăm sóc, kiểm tra vú hàng ngày, thậm chí không xem trọng, thiếu quan tâm đến những bất thường ở vú, khi tình cờ phát hiện… đến khi bệnh lý có triệu chứng xuất hiện thì ung thư đã ở giai đoạn khó điều trị.
Các kỹ thuật chẩn đoán y khoa hiện nay ở Việt Nam bao gồm siêu âm, chụp X-quang nhũ ảnh (trước đây được xem như tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán khối u ung thư vú), chụp CT, PET-CT, và cuối cùng là sinh thiết. Sinh thiết giúp xét nghiệm ung thư vú chính xác nhất, tuy nhiên độ đặc hiệu của sinh thiết còn hạn chế. Sinh thiết vú là kỹ thuật FNA (Fine Niddle Aspiration - chọc hút bằng kim nhỏ). Hiện nay ở Việt Nam, thực hiện FNA bằng cách đưa một kim nhỏ vào khối u dưới sự hướng dẫn của siêu âm, để hút một mẫu mô nhỏ đem soi dưới kính hiển vi để tìm tế bào ung thư. Có một rủi ro nhỏ có thể xảy ra đáng lưu ý trong kỹ thuật FNA hiện nay là sinh thiết nhầm mẫu mô lành thay vì mô của khối u nghi ung thư.
Dễ dàng nhận ra kết quả có khối u.
Hiện nay trên thế giới đã phát triển kỹ thuật chụp MRI chuyên biệt vú bằng máy Aurora Breast MRI vú với độ chính xác trong tầm soát ung thư lên đến 99%. Breast MRI hiện nay được xem là “ tiêu chuẩn vàng” trong chẩn đoán ung thư sớm trên thế giới. Khác biệt giữa máy MRI toàn thân sử dụng chụp vú và máy MRI chuyên biệt chụp vú là phần mềm xử lý hình ảnh bằng vi tính chuyên dụng hơn giúp loại bỏ những hình ảnh nhiễu như mô mỡ …, chỉ để lại những hình ảnh khối u cần quan sát của vú. Đặc biệt máy Breast MRI vú có hệ thống dẫn đường hướng dẫn kim sinh thiết chính xác mô đích của khối u cần xét nghiệm trong lúc chụp MRI với độ đặc hiệu 98%! Vì vậy khắc phục được sai sót trong kỹ thuật sinh thiết bằng máy siêu âm. Đặc biệt giúp chẩn đoán sớm ung thư vú một cách chính xác các khối u có kích thước nhỏ dưới 5mm.
| |
BS. CAO MINH ĐỨC